Đã lâu lâu rồi chưa viết
bài, hôm nay cũng hơi rảnh rảnh nên viết bài Ngũ hành tương sinh tương khắc
trong lòng bàn tay.
1. Ngũ hành là gì?
Người xưa thấy có 5 loại vật chính: kim (kim
loại), mộc (gỗ), thủy (nước), hỏa (lửa), thổ (đất). Và đem các hiện tượng trong
thiên nhiên và trong cơ thể con người xếp theo 5 loại vật chất gọi là ngũ hành.
Ngũ hành còn có ý nghĩa
nữa là sự vận động, chuyển hoá của các vật chất trong thiên nhiên và của phủ
tạng trong cơ thể.
Cách qui ước như sau:
- Ngón út : nhỏ nhất,
thấp nhất nên thuộc Thủy
- Ngón danh : thường
dùng đeo nhẫn cưới nên thuộc Kim
- Ngón tỏ : Khi chỉ vào
người khác, làm người ta giận nên thuộc Hỏa
- Ngón giữa: là ngón tay thối, dài
nhất nên thuộc Thổ (cái gì mà có mùi thường dưới đất)
- Ngón Cái : là ngón to
nhất nên thuộc Mộc
Như vậy, 3 ngón út, danh,
tỏ thuộc 3 cung Thủy, Kim, Hỏa rất dễ nhớ, 2 ngón còn lại các bạn có thể tự tìm
cách nhớ.
Dựa vào bàn tay, bắt đầu
từ ngón Cái, tỏ, giữa, danh, út ta có các cung sau : Mộc, hỏa, thổ, kim, thủy.
Như vậy ta có Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy lại sinh Mộc. Đó là qui
luật tương sinh trong lòng bàn tay :)
Nhờ nước cây xanh mọc lớn lên
(thuỷ sinh mộc)
Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ
(mộc sinh hoả)
Tro tàn tích lại đất vàng thêm
(hoả sinh thổ)
Lòng đất tạo nên kim loại trắng
(thổ sinh kim)
Kim loại vào lò chảy nước đen
(kim sinh thuỷ)
Qui luật tương khắc
:
- Ngón cái cách ngón
giữa bởi ngón tỏ. Như vậy Mộc khắc Thổ
- Ngón giữa cách ngón út bởi ngón danh. Như vậy Thổ khắc Thủy.
- Ngón út cách ngón tỏ bởi ngón cái. Như vậy Thủy khắc Hỏa
- Ngón tỏ cách ngón danh bởi ngón giữa. Như vậy Hỏa khắc Kim
- Ngón danh cách ngón cái bởi ngón út. Như vậy Kim khắc Mộc.
- Ngón giữa cách ngón út bởi ngón danh. Như vậy Thổ khắc Thủy.
- Ngón út cách ngón tỏ bởi ngón cái. Như vậy Thủy khắc Hỏa
- Ngón tỏ cách ngón danh bởi ngón giữa. Như vậy Hỏa khắc Kim
- Ngón danh cách ngón cái bởi ngón út. Như vậy Kim khắc Mộc.
Như vậy, Kim khắc Mộc
với Hỏa, Thủy Khắc Hỏa với Thổ, Mộc khắc Thổ với Kim, Hỏa khắc Kim với Thủy,
Thổ khắc Mộc với Thủy. Đó là qui luật tương khắc trong lòng bàn tay :)
Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày
(mộc khắc thổ)
Đất đắp đê cao ngăn nước lũ
(thổ khắc thuỷ)
Nước dội nhiều nhanh dập
lửa ngay (thuỷ khắc hoả)
Lửa lò nung chảy đồng sắt
thép (hoả khắc kim)
Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc)
Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc)
2. Sự quy loại ngũ hành trong thiên nhiên và cơ thể con người:
Hiện tượng
|
Ngũ
hành
|
||||
Mộc
|
Hoả
|
Thổ
|
Kim
|
Thuỷ
|
|
Vật chất
|
Gỗ, cây
|
Lửa
|
Đất
|
Kim loại
|
Nước
|
Màu sắc
|
Xanh
|
Đỏ
|
Vàng
|
Trắng
|
Đen
|
Vị
|
Chua
|
Đắng
|
Ngọt
|
Cay
|
Mặn
|
Mùa
|
Xuân
|
Hạ
|
Cuối hạ
|
Thu
|
Đông
|
Phương
|
Đông
|
Nam
|
Trung ương
|
Tây
|
Bắc
|
Tạng
|
Can
|
Tâm
|
Tỳ
|
Phế
|
Thận
|
Phủ
|
Đởm
|
Tiểu trường
|
Vị
|
Đại trường
|
Bàng quang
|
Ngũ thể
|
Cân
|
Mạch
|
Thịt
|
Da lông
|
Xương tuỷ
|
Ngũ quan
|
Mắt
|
Lưỡi
|
Miệng
|
Mũi
|
Tai
|
Tinh thần
|
Giận
|
Mừng
|
Lo
|
Buồn
|
Sợ
|
Tam tiêu : Thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu.
- Thượng tiêu: gồm Phế và Tâm hay từ Đầu đến Vị (dạ dày)
- Trung tiêu: gồm can và tỳ hay tính từ Vị đến Tiểu trường (ruột non)
- Hạ tiêu : gồm bàng quang hay tính từ Tiểu trường đến hậu môn
A. Về quan hệ sinh lý:
Sự sắp xếp các tạng phủ theo
ngũ hành và liên quan của chúng đến ngũ vị, ngũ sắc, ngũ quan, thể chất và hoạt
động về tình chí giúp cho ta học về các hiện tượng sinh lý, các tạng phủ dễ
dàng, dễ nhớ:
Thí dụ: Can có quan hệ biểu lý với đởm, chủ về
cân, khai khiếu ra mắt, tính thích điều đạt uất kết gây giận dữ…
B. Về quan hệ bệnh lý:
Căn cứ vào ngũ hành tìm vị trí
phát sinh một chứng bệnh của một tạng hay một phủ nào, để đề ra phương pháp
chữa bệnh thích hợp.
Sự phát sinh ra một chứng bệnh
ở 1 tạng phủ nào đó có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau:
Chính tà: do bản thân tạng phủ ấy có bệnh: bản thân tạng tâm gây ra mất ngủ: như thiếu máu không nuôi dưỡng tâm thần. Khi chữa bệnh phải bổ huyết an thần.
Hư tà: do tạng trước nó gây ra bệnh cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ mẹ truyền sang con: do tạng can gây bệnh cho tâm như cao huyết áp gây mất ngủ. Khi chữa phải bình can (hạ huyết áp) an thần.
Thực tà: do tạng sau nó gây bện cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ con truyền sang mẹ: do tạng tâm bị hư, không nuôi dưỡng được tâm thần. Khi chữa phải kiện tỳ an thần
Vi tà: do tạng khắc tạng đó mà gây ra bệnh (tương thừa): do thận âm hư không khắc được tâm gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ âm an thần.
Tặc tà: do tạng đó không khắc được tạng khác mà gây ra bệnh (tương vũ): do phế âm hư ảnh hưởng đến tâm huyết gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ phế âm an thần
Chính tà: do bản thân tạng phủ ấy có bệnh: bản thân tạng tâm gây ra mất ngủ: như thiếu máu không nuôi dưỡng tâm thần. Khi chữa bệnh phải bổ huyết an thần.
Hư tà: do tạng trước nó gây ra bệnh cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ mẹ truyền sang con: do tạng can gây bệnh cho tâm như cao huyết áp gây mất ngủ. Khi chữa phải bình can (hạ huyết áp) an thần.
Thực tà: do tạng sau nó gây bện cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ con truyền sang mẹ: do tạng tâm bị hư, không nuôi dưỡng được tâm thần. Khi chữa phải kiện tỳ an thần
Vi tà: do tạng khắc tạng đó mà gây ra bệnh (tương thừa): do thận âm hư không khắc được tâm gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ âm an thần.
Tặc tà: do tạng đó không khắc được tạng khác mà gây ra bệnh (tương vũ): do phế âm hư ảnh hưởng đến tâm huyết gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ phế âm an thần
C. Về chẩn đoán học:
Căn cứ vào những triệu chứng về
ngũ sắc, ngũ vị, ngũ quan, thể chất để tìm bệnh thuộc các tạng phủ liên quan.
a) Ngũ sắc: sắc vàng bệnh thuộc tỳ; sắc trắng bệnh thuộc
phế; sắc xanh bệnh thuộc can; sắc đen bệnh thuộc thận.
- Da xanh liên quan đến Can : gan
- Da xạm đen liên quan đến Thận
- Da vàng liên quan bệnh của Tạng Tỳ
- Da đỏ hồng liên quan đến Tâm Hoả nhiệt...
b) Ngũ chí: giận dữ, cáu gắt bệnh ở can, sợ
hãi bệnh ở thận, huyên thuyên bệnh ở tâm; lo nghĩ bệnh ở tỳ; buồn rầu bệnh ở
phế.
- Nộ thương Can (giận dữ tổn hại Can)
- Hỷ thương Tâm (Vui mừng thái quá hại Tâm)
- Bi thương Phế (Buồn quá hại Phế)
- Ưu tư thương Tỳ (Lo nghĩ nhiều hại Tỳ)
- Kinh khủng thương Thận (Sợ hãi quá hại Thận)
c) Ngũ khiếu và ngũ thể: bệnh ở can: tay chân co quắp thuộc bệnh ở
can; bệnh ở mũi; viêm mũi dị ứng, chảy máu cam vv… thuộc bệnh phế; bệnh ở miệng:
ăn kém, loét miệng vv… thuộc bệnh tỳ vị; bệnh ở mạch: mạch hư, nhỏ vv… thuộc
bệnh tâm; bệnh ở xương tủy: chậm biết đi, chậm mọc răng vv… thuộc bệnh thận.
D. Về điều thị học:
Đề ra nguyên tắc chữa bệnh: hư
thì bổ mẹ, thực thì tả con.
Thí dụ: bệnh phế khí hư, phế lao… phải kiện tỳ vì tỳ
thổ sinh phế kim (hư thì bổ mẹ).
Bệnh cao huyết áp do can dương
thịnh phải chữa vào tâm: (an thần) vì can mộc sinh tâm hoả (thực thì tả con).
Châm cứu: trong châm cứu người ta tìm ra loại
huyệt ngũ du.
Tùy kinh âm, kim dương mỗi loại
huyệt tương ứng với một hành; trong một đường kinh quan hệ giữa các huyệt là
quan hệ tương sinh; giữa hai kinh âm dương quan hệ giữa các huyệt là quan hệ
tương khắc.
Tên các huyệt ngũ du được đặt
theo ý nghĩa của kinh khí đi trong đường kinh như dòng nước chảy:
Huyệt hợp: nơi kinh khí đi vào
Huyệt kinh: nơi kinh khí đi qua
Huyệt du: nơi kinh khí dồn lại
Huyệt huỳnh: nơi kinh khí chảy
xiết
Huyệt tỉnh: nơi kinh khí đi ra
Sơ đồ sắp xếp các huyệt ngũ du
liên quan đến tương sinh, tương khắc của ngũ hành như sau:
Kinh
|
Loại huyệt ngũ du
|
||||
Tĩnh
|
Huỳnh
|
Du
|
Kinh
|
Hợp
|
|
Dương
|
Kim
|
Thủy
|
Mộc
|
Hỏa
|
Thổ
|
Âm
|
Mộc
|
Hoả
|
Thổ
|
Kim
|
Thủy
|
Khi sử dụng huyệt ngũ du để
chữa bệnh, người ta cũng thực hiện theo nguyên tắc hư thì bổ mẹ, thực thì tả
con (cách vận dụng ngũ du huyệt sẽ nói kỹ ở phần châm cứu).
E. Về sự quy kinh của thuốc:
Người ta tìm kiếm và xét các
tác dụng của thuốc đối với bệnh tật các tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa vị,
sắc với tạng phủ.
Vị chua, màu xanh vào Can (gan)
Vị đắng, màu đỏ vào Tâm (Tim)
Vị ngọt, màu vàng vào Tỳ (Lá lách)
Vị cay, màu trắng vào Phế (Phổi)
Vị mặn, màu đen vào Thận
Người ta còn vận dụng ngũ vị để
bào chế làm vị thuốc thay đổi tính năng và tác dụng cho đi vào các tạng
phủ theo yêu cầu chữa bệnh: sao với dấm cho vị thuốc vào can; sao với muối cho
vị thuốc vào thận; sao với đường cho vị thuốc vào tỳ; sao với gừng cho vị thuốc
vào phế
3. Ngũ hành kết hợp 12 con giáp
Ngũ hành kết hợp với 12 con giáp ứng với mỗi
năm tạo ra một chu kỳ 60 can chi, đây cũng là yếu tố quan trọng trong phân tích
Tử vi . Trong tử vi , mối liên hệ giữa năm nguyên tố: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
chiếm một vị trí quan trọng. Năm hành này khi tương tác lẫn nhau phải theo cơ
chế hai chiều là Tương Sinh và Tương Khắc. Đây là tinh thần căn bản của thuyết
Ngũ Hành.
Nạp Âm là khái niệm vô cùng quan trọng của Dịch Học. Trong Thuyết Tam Tài: Thiên – Địa – Nhân thì NHÂN chính là Ngũ Hành của Nạp Âm. Trong nhiều môn thuật của Lý Số thì Ngũ Hành của Nạp Âm là cái hồn, là tâm linh của con người. Ứng dụng dễ thấy nhất của Ngũ Hành Nạp Âm chính là Niên Mệnh theo từng năm tuổi trong bảng Lục Thập Hoa Giáp. Dưới đây là bảng Lục Thập Hoa Giáp với Ngũ Hành Nạp Âm của từng năm tuổi làm phương tiện tra cứu tham khảo.
Nạp Âm là khái niệm vô cùng quan trọng của Dịch Học. Trong Thuyết Tam Tài: Thiên – Địa – Nhân thì NHÂN chính là Ngũ Hành của Nạp Âm. Trong nhiều môn thuật của Lý Số thì Ngũ Hành của Nạp Âm là cái hồn, là tâm linh của con người. Ứng dụng dễ thấy nhất của Ngũ Hành Nạp Âm chính là Niên Mệnh theo từng năm tuổi trong bảng Lục Thập Hoa Giáp. Dưới đây là bảng Lục Thập Hoa Giáp với Ngũ Hành Nạp Âm của từng năm tuổi làm phương tiện tra cứu tham khảo.
Thành Hưng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét